ĐẾ HIỆU 18 ĐỜI VUA HÙNG
1. Kinh Dương Vương ( Lộc Tục )
2. Hùng Hiền Vương ( Lạc Long Quân )
3. Hùng Quốc Vương
4. Hùng Hoa Vương
5. Hùng Hy Vương
6. Hùng Huy Vương
7. Hùng Chiêu Vương
8. Hùng Dĩ Vương
9. Hùng Định Vương
10. Hùng Uy Vương
11. Hùng Trinh Vương
12. Hùng Võ Vương
13. Hùng Việt Vương
14. Hùng Anh Vương
15. Hùng Triều Vương
16. Hùng Tạo Vương
17. Hùng Nghị Vương
18. Hùng Duệ Vương
LỊCH SỬ ĐẠI CƯƠNG VIỆT NAM
Trên đất nước Việt Nam từ xa xưa đã có người Việt cổ sinh sống. Họ tập hợp thành từng bộ lạc, sống rải rác trong các hang động và dọc các bờ sông, bờ suối, phát triển đông dân đến cách đây mấy nghìn đời mới hình thành quốc gia rõ rệt
1. Kinh Dương Vương ( Lộc Tục )
2. Hùng Hiền Vương ( Lạc Long Quân )
3. Hùng Quốc Vương
4. Hùng Hoa Vương
5. Hùng Hy Vương
6. Hùng Huy Vương
7. Hùng Chiêu Vương
8. Hùng Dĩ Vương
9. Hùng Định Vương
10. Hùng Uy Vương
11. Hùng Trinh Vương
12. Hùng Võ Vương
13. Hùng Việt Vương
14. Hùng Anh Vương
15. Hùng Triều Vương
16. Hùng Tạo Vương
17. Hùng Nghị Vương
18. Hùng Duệ Vương
LỊCH SỬ ĐẠI CƯƠNG VIỆT NAM
Trên đất nước Việt Nam từ xa xưa đã có người Việt cổ sinh sống. Họ tập hợp thành từng bộ lạc, sống rải rác trong các hang động và dọc các bờ sông, bờ suối, phát triển đông dân đến cách đây mấy nghìn đời mới hình thành quốc gia rõ rệt
Quốc gia đầu tiên của ta là Văn Lang do các vua Hùng đứng đầu. Đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán một trong những thủ lĩnh của bộ lạc Âu Việt lên thay lập ra nước Âu Việt, tự xưng là An Dương Vương.
Năm 221 ( tr.CN ) Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư dẫn quân sang xâm lược nước ta nhưng không thành.
Năm 207 ( tr.CN ) Triệu Đà, một viên tướng nhà Trần nhiều lần đánh phá nước ta nhưng thất bại, xin giảng hòa, đưa con là Trọng Thủy sang ở rể. Do mất cảnh giác, chủ quan khinh địch, An Dương Vương trúng kế giặc bị thua trận phải nhảy xuống biển tự tử. Chiếm được nước ta, Triệu Đà sát nhập nước ta vào miền Nam Trung Quốc thành nước Nam Việt.
Năm 111 ( tr.CN ) nhà Hán bắt giết cha con Triệu Đà, chia nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Từ đó trở đi nước ta bị các triều đại phong kiến Trung Quốc như : Hán, Đông, Ngô, Lương, Tùy, Nam Hán thay nhau cai trị trên 1000 năm. Triều đình phong kiến Trung Quốc đã vơ vét của cải, áp bức bốc lột nhân dân ta thậm tệ và có ý đồ đồng hóa nước ta thành người Trung Quốc.
Với truyền thống chiến đấu kiên cường, nhân dân ta đã tổ chức hàng trăm cuộc khởi nghĩa để giành độc lập. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ( mùa xuân 40 – nhà Hán ), bà Triệu ( 248 – Đông Ngô ), Lý Bý ( 542 – nhà Lương ), Lý Tự Tiên ( 687 – nhà Đường ), Mai Thúc Loan, Phùng Hưng ……… Năm 938, Ngô Quyền tập hợp nhân dân ta chống lại cuộc xâm lược của quân Nam Hán, chém tướng Lưu Hoằng Thao trên sông Bạch Đằng, giành lại toàn bộ chủ quyền đất nước, mở ra thời kỳ lâu dài cho dân tộc.
Từ năm 989 đến 1400, nước ta trải qua các triều đại phong kiến Ngô, Lê, Lý, Trần. Nhờ tinh thần đoàn kết một lòng giữa vua và dân, lại được sự chỉ huy của các tướng lĩnh đầy thao lược như Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo. Quân và dân đã đập tan ảo mộng ngông cuồng của quân xâm lược, nhiều trận đánh vang dội trên sông Bạch Đằng, sông Cầu, ở Đông Bộ Đầu, Chương Dương,Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn…… làm quân thù khiếp vía.
Năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra vương triều nhà Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu. Nhân cơ hội đó nhà Minh đưa quân sang thâu tóm nước ta. Vì không đoàn kết được nhân dân và không phát huy được sức mạnh dân tộc nên nhà Hồ thất bại.
Năm 1416 khởi nghĩa Lam sơn bùng nổ, qua 10 năm chiến đấu trường kỳ gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi nhân dân đã quật ngã bộ máy thống trị của quan quân nhà Minh, giải phóng hoàn toàn đất nước.
Đầu thế kỷ 16 vương triều nhà Lê thoái hóa, nội bộ chia làm nhiều phe xâu xé lẫn nhau, tranh giành quền lực.
Năm 1527 Mạc Đăng Dung truất phế nhà Lê, lập triều Mạc. Các tướng cũ của triều Lê đứng đầu là Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm chiêu mộ nghĩa sĩ chống nhà Mạc nhằm khôi phục triều Lê. Cuộc nội chiến kéo dài đến năm 1592 với thắng lợi của triều Lê.
Ít năm sau, năm 1627 nổ ra cuộc phân tranh giữa tập đoàn phong kiến họ Trịnh ở phía Bắc và họ Nguyễn ở phía Nam chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm giới tuyến.
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ đứng đầu kéo dài từ năm 1773 đến năm 1789 đã quét sạch hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn. Đánh bại 20 vạn quân Xiêm ở miền Nam, tiêu diệt 290.000 quân Thanh ở miền Bắc, xóa bỏ chia cắt đất nước, thống nhất sơn hà.
Năm 1802 Nguyễn Ánh đánh đổ triều đại Tây Sơn, lập ra vương triều nhà Nguyễn và lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long.
Năm 1858 thực dân Pháp lấy cớ khai hóa văn minh, bảo vệ đạo Thiên Chúa, trực tiếp đưa quân đánh chiếm nước ta làm thuộc địa của chúng.
Suốt hơn 80 năm dưới thời Pháp thuộc, bọn thực dân đã biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, vơ vét tài nguyên, bốc lột nhân công rẻ mạt, thẳng tay tàn sát những người yêu nước, bắt người Việt đi lính bảo vệ nước Pháp, chia cắt nước ta ra làm 3 miền.
Từ Bắc chí Nam nhân dân ta liên tục đứng lên chống lại chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương, Văn Thân, khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động chính trị của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu …… Nhưng chưa có đường lối đúng đắn, chưa huy động được đông đảo nhân dân tham gia nên các cuộc khởi nghĩa đều thất bại.
Sau một thời gian bôn ba ở hải ngoại tìm đường cứu nước, năm 1930 đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị ở Cửu Long ( Hương Cảng – Trung Quốc ) thống nhất 3 tổ chức cộng sản trong nước ( Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội – 6 / 1925 ), Tân Việt Cách Mạng Đảng – 1928, Việt Nam Quốc Dân Đảng – cuối năm 1927 để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp, lật đổ triều đình phong kiến nhà Nguyễn giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho nhân dân.
Năm 1930 – 1931 phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân bùng nổ với đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Cuối tháng 9 / 1940 quân Nhật kéo vào Đông Dương, thỏa hiệp với thực dân Pháp ra sức đàn áp và bốc lột nhân dân ta.
Tháng 8 năm 1945 tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, đập tan chế độ thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng ngàn năm. Ngày 02 / 9 / 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Ngày 23 / 9 / 1945 thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch nhân dân ta kiên trì kháng chiến suốt 9 năm với các chiến dịch Việt Bắc ( 10 / 1947 ), chiến dịch Biên Giới (1950), chiến dịch Tây Bắc ( 1952 ), chiến cuộc Đông Xuân ( 1953 – 1954 ) và đến tháng 7 / 1954 kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động thế giới. Chính phủ Pháp phải đặt bút ký hiệp định Giơ – ne – vơ ( đất nước tạm chia cắt làm 2 miền và tổng tuyển cử để thống nhất đất nước vào năm 1956 ).
Tháng 11 năm 1954 đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, cùng nhiều chiến lược có tầm cỡ như : “ Chiến tranh đặc biệt – 1961 “, “ Chiến tranh cục bộ “ ( với 2 cuộc phản công mùa khô 1963 – 1965 và 3 cuộc hành quân lớn At-tơn-bo-rơ , Xa-da-phôn, Giôn-xơn-xi-ti ), chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh “ …… Chúng rắp tâm phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng và xây dựng miền Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ để tấn công xâm lược miền Bắc nước ta.
Ròng rã 21 năm đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tổ chức nhiều đợt phản công như cuộc Tổng tiến công tết Mậu Thân 1968, chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế – Đà Nẵng …… đánh duổi Mỹ ra khỏi nước, đánh sập Ngụy quyền Sài Gòn và giành thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30/4/1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh, đất nước được thống nhất.
Nhìn lại mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta tự hào về ông cha ta đã đổ biết bao xương máu, mồ hôi nước mắt để tạo nên một đất nước vô cùng tươi đẹp và hết sức anh hùng. Là người Việt Nam chúng ta có quyền tự hào về lịch sử oai hùng ấy và nguyện chung lòng, chung sức để tiếp tục viết nên những trang sử mới sứng đáng với cha ông.
QUỐC HIỆU VÀ THỦ ĐÔ NƯỚC TA QUA CÁC THỜI KỲ
Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ
Hùng Hiền Vương lên ngôi vua đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu.
Năm 208 ( tr.CN ) Thục Phán xưng vương ( An Dương Vương ) lập ra nước Âu Lạc, đóng đô ở thành Cổ Loa.
Năm 542 Lý Bí lên ngôi hoàng đế đóng đô tại Long Biên đặt tên nước là Vạn Xuân.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi vua Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La đặt tên là Thăng Long. Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt.
Tháng 03 năm 1400 Hồ Quý Ly phế ngôi nhà Trần, lập nhà Hồ và đổi tên nước Đại Ngu.
Năm 1428 Lê Lợi đánh thắng quân Minh lên ngôi vua và đặt tên nước Đại Việt, kinh đô là Thăng Long.
Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh đóng ở Thăng Long. Chúa Nguyễn đóng ở Thuận Hóa rồi ở Phú Xuân.
Năm 1786 Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế triều đại Tây Sơn đóng đô ở Quy Nhơn. Cuối năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân.
Năm 1802 Nguyễn Ánh lật đổ triều Tây Sơn lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long đóng đô ở Phú Xuân đặt tên nước Việt Nam.
Năm 1820 dưới thời Minh Mạng nước ta đổi tên là Đại Nam.
Ngày 02/9/1945 Hồ Chủ Tịch đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Tháng 07/ 1976 nước ta đổi tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thủ đô Hà Nội.
0 nhận xét:
☼ Liên Đội chỉ trả lời comment hoặc giải đáp thắc mắc khi bạn điền đầy đủ Họ tên - lớp và có địa chỉ Email ( hoặc nick chat Yahoo Messenger ) ☼